Trang thông tin điện tử huyện gia viễn
CHÀO MỪNG ĐẾN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ UBND HUYỆN GIA VIỄN

Cẩm nang thuyết minh chùa Bái Đính

Thứ bảy, 12/11/2022

          A. GIỚI THIỆU CHUNG

          Chùa Bái Đính nằm trong Quần thể Danh thắng Tràng An thuộc địa bàn xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, cách TP Ninh Bình khoảng 18 km và cách Hà Nội khoảng 100 km. Chùa Bái Đính được mệnh danh là ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, được biết đến với nhiều kỷ lục Châu Á và Việt Nam như: Chùa có tượng Phật giát vàng lớn nhất Châu Á, Hành lang La Hán dài nhất Châu Á, Tháp Xá Lợi Phật cao nhất Châu Á và Tượng Phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á...

          Chùa Bái Đính (chùa cổ) có từ năm 1136 do Quốc sư Nguyễn Minh Không sáng lập, gồm có các điểm như: Giếng Ngọc, Động thờ Tổ sư, Động thờ Phật, Động thờ Mẫu, Ban thờ Thánh Cao Sơn...

          Từ năm 2003, dựa trên nền tảng của ngôi chùa cổ, Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường đã phát tâm công đức trùng tu và mở rộng chùa với tổng diện tích hơn 1000 ha. Các công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa (chùa mới) hiện nay gồm: Cổng Tam Quan, Gác Chuông, Điện Quán Âm, Điện Giáo Chủ, Điện Tam Thế, Tháp Báo Thiên, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Tháp Tứ Ân, Bát Chính đạo, Hành lang La Hán... Ngoài ra, chùa còn nhiều công trình vẫn đang tiếp tục xây dựng như: Công viên Văn hoá Phật giáo, Khu hồ Đàm Thị, Công viên cây xanh...

          Ngày 23 tháng 6 năm 2014, Quần thể Danh thắng Tràng An (trong đó có chùa Bái Đính) đã được Ủy ban Di sản Thế giới công nhận là Di sản Thế giới hỗn hợp đầu tiên tại Việt Nam về văn hóa và thiên nhiên.

          B. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

          Cách đây hơn 1000 năm, tại Ninh Bình tồn tại ba triều đại phong kiến là: Đinh, Tiền Lê và Lý, các triều đại này đều coi đạo Phật là Quốc giáo. Chính vì vậy, nhiều ngôi chùa đã được xây dựng ở Ninh Bình, trong đó có chùa Bái Đính.

          Năm 1136, khi Quốc sư Nguyễn Minh Không đi tìm cây thuốc để chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, Ngài đã phát hiện ra hang động trên núi Đính và chọn nơi đây để tôn thờ tượng Phật, làm nơi tu hành.

          Năm 968, Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân và lên ngôi hoàng đế, ông đã lên núi Đính lập đàn tế trời để cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và phong hầu bái tướng sĩ. Vua Quang Trung cũng đã về đây lập đàn tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh.

          Ngày 6 tháng 01 năm (1943 – 1944), đồng chí Trần Tử Bình đã chọn núi Bái Đính làm khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, ông kêu gọi toàn dân đứng lên kháng chiến góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Vì vậy, ngày 6 tháng Giêng hàng năm là ngày lễ hội chùa.

Năm 1997, chùa được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cách mạng cấp Quốc gia.

          C. CHÙA BÁI ĐÍNH

          I. Khu chùa Cổ:

          1. Giếng ngọc:

          Giếng ngọc có diện tích xung quanh 6000m2, đường kính 30m, độ sâu 10m, mực nước 6-7m và bao quanh có 04 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng xác nhận “Ngôi chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam”.

          2. Động thờ Tổ sư:

          Động thờ Tổ sư thờ 02 pho tượng là: Đạt Ma Tổ sư và một vị Tổ sư của Việt Nam (hiện chưa rõ danh tính).

          Đạt Ma Tổ sư là vị tổ thứ 28 của dòng thiền Phật giáo Ấn Độ và sư tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Từ nhỏ, Ngài theo học Phật giáo Đại thừa và đến năm 520 Ngài sang Trung Hoa để truyền đạo. Trong 9 năm tu hành tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn (Hà Nam – Trung Quốc), Ngài đã thành lập ra môn võ Thiếu Lâm.

          Vị Tổ sư còn lại là một vị Tổ sư người Việt Nam, hiện chưa rõ danh tính. Trước kia, 2 vị Tổ sư này được thờ ở chùa Đà Ha (thôn Sinh Dược – xã Gia Sinh – huyện Gia Viễn), sau đó người dân đã rước hai pho tượng này về thờ tại chùa Bái Đính.

          3. Động thờ Phật:

          Động thờ Phật có chiều dài 25m cao 2m. Trong một lần vua Lê Thánh Tông thăm chùa Bái Đính đã ban tặng bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam” trên cửa động, để ca ngợi vẻ đẹp và sự linh thiêng của núi rừng nơi đây. Trước cửa động thờ 2 pho tượng Hộ Pháp bằng đồng là ngài Khuyến Thiện và ngài Trừng Ác.

          Chính giữa của động tôn thờ Tam Bảo: Phật Bảo là 10 phương ba đời các Đức Phật (Phật Thích Ca là giáo chủ); Pháp Bảo là kinh điển, giới luật, giáo lý... của nhà Phật; Tăng Bảo là những người xuất gia tu hành tu theo giới luật của Phật và truyền trì chính pháp.

          Đức Thánh Hiền hay còn gọi là A Nan Tôn Giả, ngài là đệ tử thân cận của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. A Nan có trí nhớ siêu việt nên sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Ngài đã ghi chép lại những lời dạy của Đức Phật thành kinh kệ để lưu truyền cho thế hệ sau.

Đức Ông là Trưởng giả Tu Đạt hay còn gọi là Cấp Cô Độc. Ông là một vị Trưởng giả ở đất nước Ấn Độ cổ, sinh cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đệ tử tu tại gia và là hộ pháp đắc lực của Đức Phật. Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, Trưởng giả Tu Đạt và Thái tử Kỳ Đà đã cùng nhau xây dựng một Tịnh Xá dâng lên Đức Phật để làm nơi thuyết pháp, độ sinh. Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, thì nơi này đã làm nơi thờ Phật và đó được coi là ngôi chùa đầu tiên.

          4. Động thờ Mẫu:

          Bên trái cửa động treo quả chuông nặng 300kg và có khắc 8 chữ là: “Mẫu – Nghi – Thiên – Hạ / Xuân – Hạ – Thu – Đông”.

          Cũng như các ngôi chùa khác ở Việt Nam, chùa Bái Đính có tín ngưỡng thờ Tam tòa Thánh Mẫu, ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn... Trong đó, Mẫu Thoải là Mẫu đệ tam cai quản vùng sông nước, khoác trên người màu áo trắng; Mẫu Thượng Ngàn là Mẫu đệ nhị cai quản vùng núi rừng, khoác trên người màu áo xanh; Mẫu Liễu Hạnh là mẫu đệ nhất, khoác trên người màu áo đỏ.

          Hình ảnh Mẫu Liễu Hạnh được xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI. Tới thế kỷ XIX, Mẫu Liễu Hạnh được triều đình nhà Nguyễn sắc phong là Mẫu Nghi Thiên Hạ (người mẹ mẫu mực của muôn dân), luôn luôn che chở, phú hộ độ trì cho muôn dân.

          Hầu cận của Mẫu là đôi Kim Đồng – Ngọc Nữ cùng với Ngũ vị tiên quan, tức là năm vị quan tối cao thi hành các nhiệm vụ của Mẫu khi mẫu ban lệnh.

          5. Thánh Cao Sơn:

          Theo truyền thuyết, Thánh Cao Sơn là một vị tướng của Vua Hùng (Tản Viên là anh cả, Cao Sơn là anh thứ hai, Quý Minh Đại Vương là thứ ba). Tương truyền rằng, lệnh bài người cầm trước ngực là do vua Hùng ban cho những cánh quân đi về núi Bái Đính để trấn giữ 99 ngọn núi.

          II. Khu chùa Mới:

          Năm 2003, dựa trên nền tảng và lịch sử của ngôi chùa Cổ đã có từ năm 1136, Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường đã phát tâm công đức trùng tu và mở rộng chùa với tổng diện tích hơn 1000 ha. Hiện nay, chùa có thêm nhiều điểm thăm quan mới như: Tam Quan Ngoại và Nội, Gác Chuông, Điện Quán Âm, Điện Giáo Chủ, Điện Tam Thế, Tượng Di Lặc và Tháp Báo Thiên, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Bát Chính Đạo, Tháp Tứ Ân...

          1. Cổng Tam quan:

          Cổng Tam Quan được xây dựng hoàn toàn bằng 550 m3 gỗ, với 04 cây cột trụ, mỗi cây cao 13,85m, đường kính 0,87m và nặng gần 10 tấn/cột.

          Hai bên cổng Tam Quan là 2 pho tượng Hộ Pháp: Ngài Khuyến Thiện và ngài Trừng Ác, được các nghệ nhân ở Ý Yên – Nam Định đúc bằng đồng nguyên khối, có chiều cao là 5,5m, nặng 30 tấn.

Ngài Khuyến Thiện chuyên khuyến khích con người làm việc thiện; ngài Trừng Ác chuyên răn đe con người không được làm điều ác.

          2. Hành lang La Hán:

          La Hán là đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là những người đã tu hành đắc đạo đạt đến quả vị A La Hán, chưa thành Phật. Hành lang La Hán gồm 02 dãy với tổng chiều dài 1700m và đặt 500 pho tượng La Hán bằng đá xanh nguyên khối do các nghệ nhân ở làng nghề đá Ninh Vân – Hoa Lư tạc. Mỗi pho cao trung bình 2,5m, nặng từ 2 – 4 tấn.

Hành lang La Hán được xác lập kỷ lục là “Hành lang La Hán dài nhất Châu Á”.

          Hành lang La Hán còn đặt tượng hai vị chân sư người Việt Nam là:

          - Hòa thượng Thích Quảng Đức (ở bên phải hành lang) tên thật là Lâm Văn Tức, quê ở Khánh Hòa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ – Diệm 1963, Ngài đã tự thiêu đốt thân mình để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Thân thể Ngài cháy thành tro bụi nhưng trái tim của Ngài bất diệt, vì vậy người đời tôn xưng Ngài là Bồ Tát Quảng Đức.

          - Phật Hoàng Trần Nhân Tông (ở bên trái hành lang) sinh năm 1258, là Thái Tử Khâm con trai của vua Trần Thánh Tông. Năm 1278, Ngài kế vị ngôi vua và lấy hiệu là Trần Nhân Tông. Ngài là một vị vua anh minh, tài giỏi và giàu lòng từ bi quảng đại. Sau 15 năm tại vị, Ngài đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên núi Yên tử tu hành và sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

          3. Gác chuông:

          Gác chuông có chiều cao 18,25m, đường kính 17m, được xây dựng bằng bê tông sơn màu gỗ, theo lối kiên trúc gác chuông cổ hình bát giác, 03 tầng với 24 mái đao cong vút mang dáng dấp là một bông hoa sen cách điệu.

          Trên Gác chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn do các nghệ nhân của TP Huế đúc. Năm 2007, quả chuông đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là “Đại Hồng chung lớn nhất Việt Nam”.

          Dùi chuông có trọng lượng 5 tạ, dài 4,5m và đường kính 0,32m.

          Trống đồng có đường kính của mặt trống 5,5m, trọng lượng 70 tấn do các nghệ nhân của huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đúc.

          4. Điện Quán Âm:

          Điện Quán Âm được xây dựng hoàn toàn bằng 900 m3 gỗ. Trong gian chính của điện tôn thờ tượng Phật Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, bằng đồng giát vàng, có chiều cao 10 mét, nặng 90 tấn đồng do các nghệ nhân ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đúc. Bên phải của Điện là tượng Đại Thế Chí Bồ Tát; bên trái của Điện là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, được tạc từ hai cây gỗ nguyên khối, mỗi tượng cao 10m, nặng 4 tấn.

          Đây là pho tượng đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là “Pho tượng Quán Âm Bồ Tát bằng đồng giát vàng lớn nhất Việt Nam”.

          5. Điện Giáo Chủ:

          Điện Giáo Chủ có diện tích gần 2000m2, cao 30m được xây dựng bằng bê tông sơn màu gỗ. Điện Giáo Chủ là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – người sáng lập ra đạo Phật.

          Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được đúc bằng đồng nguyên khối giát vàng, cao 10m, nặng 100 tấn. Đây là pho tượng được Trung tâm sách xác lập kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận “Pho tượng Thích Ca bằng đồng giát vàng lớn nhất Việt Nam”.

          Bên phải của Điện là tượng Tôn giả A Nan bằng đồng giát vàng, cao 7,2m và nặng 30 tấn. Ngài là một trong mười đại đệ tử thông minh của Đức Phật. Khi Phật còn tại thế, Ngài là người thân cận hầu Phật và được trực tiếp nghe nhiều giáo pháp của Phật. Tất cả những lời Phật dạy, Ngài đều thuộc và ghi chép thành Tam tạng kinh điển để truyền lại cho đời sau. Chính vì vậy, Ngài được tôn xưng hiệu là “Đa Văn Đệ nhất”, tức là “người nghe nhiều nhất”.

          Bên trái của Điện là tượng Tôn giả Ca Diếp bằng đồng giát vàng, cao 7,2m nặng 30 tấn. Ngài cũng là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật và chuyên tu hạnh đầu đà, tức là tu hành khổ hạnh và đi khất thực... Chính vì vậy, ngài được tôn xưng là “Đầu Đà Đệ Nhất”.

          Ngoài ra, ở hai bên Điện là Bát bộ Kim cương bằng đồng nguyên khối, mỗi pho tượng cao 5m, nặng 8 tấn. Tám vị Kim Cương này có nhiệm vụ là bảo vệ và hộ trì Phật pháp.

        6. Điện Tam Thế:

          Điện Tam Thế là ngôi điện cao nhất trong khu Du lịch Văn hóa Tâm linh chùa Bái Đính, gồm có 02 tầng: tầng trên là ngôi điện thờ Tam Thế Phật (Quá khứ – Đức Phật A Di Đà; Hiện tại – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni; Tương lai – Đức Phật Di Lặc); tầng dưới là khu trưng bày hiện vật, văn hoá phẩm Phật giáo và Tịnh Tâm Chay. Điện được xây dựng bằng bê tông sơn màu gỗ, có chiều cao 35m, hơn 40m, hơn 50m.

          Ba pho tượng Phật Tam Thế có ba cách kết ấn khác nhau: Phật A Di Đà kết ấn thuyết pháp, tức là mang đạo Phật để truyền giảng cho chúng sinh; Phật Thích Ca kết ấn thiền định, tức là giữ cho tâm sáng để chống lại mọi tà giáo; Phật Di Lặc kết ấn vô úy, tức là mang lại sự bình an cho chúng sinh.

          Bộ tượng này được đúc bằng đồng nguyên khối và giát vàng, mỗi pho tượng có chiều cao 7,2m và nặng 50 tấn. Đây là bộ tượng được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác lập “Bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”.

          7. Tượng Phật Di Lặc:

          Tượng Phật Di Lặc được đúc bằng đồng nguyên khối, cao 10m, nặng 80 tấn. Tượng được xác lập kỷ lục “Pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á”.

           Phật Di Lặc là biểu tượng của hạnh phúc và an lạc. Nụ cười của Phật Di Lặc mạnh luôn tỏa sáng trên khuôn mặt hiền từ; bình Hồ lô biểu tượng cho sức khỏe và trường thọ; chiếc gậy như ý biểu tượng cho quyền uy.

          8. Tháp Báo Thiên:

          Tháp Báo Thiên được xây dựng năm 2009, kiến trúc hình lục giác với chu vi 24 mét, chiều cao 100 mét gồm 13 tầng, được xác lập kỷ lục là ngôi Bảo Tháp cao nhất Châu Á.

          Tháp được xây dựng bằng bê tông cốt thép bên ngoài được ốp gạch nung Bát Tràng là những vật liệu thuần Việt.

          Tháp là nơi an vị Xá Lợi Phật Thích Ca và các đệ tử của Ngài, được rước từ Ấn Độ về Việt Nam từ năm 2008.

          Tầng 1 của Tháp tôn thờ pho tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được đúc bằng đồng nguyên khối giát vàng với tư thế Xúc Địa ấn, có nghĩa là “chạm vào trái đất” hay “gọi trái đất để chứng kiến”.

          Xung quanh trên bức tường của Tháp là các bức phù điêu mô tả chân thực về cuộc đời của Đức Phật kể từ khi Ngài giáng sinh ra cho đến khi Ngài thành đạo và nhập Niết bàn.

          Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Ngài đã để lại hàng ngàn viên Xá Lợi với nhiều màu sắc khác nhau. Xá Lợi là một trong ba báu vật của Phật giáo (Tượng Phật – Xá Lợi – Cây Bồ đề). Xá Lợi là kim thân của Đức Phật, vì vậy chúng ta được chiêm ngưỡng, được lễ bái Xá Lợi tức là được chiêm bái kim thân Đức Phật.

          Đứng trên tầng 12 của Tháp có thể nhìn toàn cảnh chùa Bái Đính ban ngày như một bức tranh sơn thủy hữu tình; chùa Bái Đính về đêm dưới ánh đèn lung linh huyền ảo cũng như những bông hoa sen tỏa ánh sáng, hào quang bồng bềnh trên mặt nước.

          9.  Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Tháp Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Tháp Tứ Ân và Bát Chính Đạo

          Đạo Phật đã xuất hiện khoảng 25 thế kỷ và du nhập vào Việt Nam, cũng trên dưới 20 thế kỷ. Đạo Phật đã gắn liền với văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, để hiểu về Đạo Phật và ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống hàng ngày thì không phải ai cũng làm được, đòi hỏi mỗi chúng ta phải nỗ lực rèn luyện và nương theo những lời dạy của Đức Phật để tu tập, sửa mình cho ngày một hoàn thiện hơn.

          Sau khi Đức Phật Thích Ca giác ngộ, bài thuyết pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần Như tại khu vườn Lộc Uyển là: Tứ Diệu Đế là bốn chân lí kỳ diệu, màu nhiệm, xác thực .

          + Tứ là bốn.

          + Diệu có nghĩa là kì diệu, màu nhiệm.

          + Đế có nghĩa là chân lý hay sự thật.

          Bốn chân lý màu nhiệm, xác thực gồm:

          + Khổ đế: Sự thật về khổ.

          + Tập đế: nguyên nhân của khổ.

          + Diệt đế là chấm dứt đau khổ và tham ái.

          + Đạo đế là con đường giải phóng chúng ta ra khỏi sự đau khổ. Đạo đế con đường diệt khổ, đó chính là con đường Bát Chính Đạo, gồm có 08 chi giúp chúng sinh hướng đến một cuộc sống hạnh phúc, an lạc và giải thoát, tiến đến giác ngộ.

          08 chi này gồm có: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định.

          + Chính kiến là sự nhận thức sáng suốt chân chính không còn vướng bụi của tà biến, mê lầm…

          + Chính tư duy là suy nghĩ đúng đắn, chân chính.

          + Chính ngữ là lời nói chân thật không dối lừa.

          + Chính nghiệp là hành động chân thành, sáng suốt.

          + Chính mạng là lối sống chân chính, không hại mình, hại người.

          + Chính tinh tấn là siêng năng làm những việc chính đáng, mang lợi ích cho mình và cho người.

          + Chính niệm là suy nghĩ và ghi nhớ những điều chân chính.

          + Chính định là tập trung tư tưởng vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý lợi cho mình và cho người.

          Như vậy, 08 chi nhánh của con đường Bát Chính Đạo có mối liên quan mật thiết với nhau. Trên con đường hướng tới niềm an lạc, hạnh phúc thì ta cần thực hành Bát Chính Đạo, cốt là để tu sửa ba nghiệp Thân - Khẩu - Ý của mình.

          Bát Chính Đạo được xây dựng theo trục thần đạo từ dưới lên trên, nhất tâm hướng về Phật – Pháp – Tăng:

          + Điểm cao nhất là Tháp Báo Thiên nơi nhà chùa an vị Xá Lợi Phật hiện thân cho Phật.

          + Tiếp đến là Trung tâm Hội nghị Quốc tế có sức chứa 3.500 chỗ ngồi là nơi tổ chức các sự kiện lớn của Phật giáo đồng thời cũng là nơi tổ chức Khóa tu mùa hè, hoằng pháp lợi sinh.

          + Hàng thứ 3 đại diện cho Tăng Bảo là Tháp Cố Hòa thượng Thích Thanh Tứ, nguyên Trụ trì chùa Bái Đính.

          + Tháp Tứ Ân là nơi thờ Cư sĩ Phật tử Diệu Liên. Bà là tấm gương sáng tiêu biểu cho chúng sinh, hiểu và thực hành theo Bát Chính Đạo. Khi sinh thời bà luôn tâm huyết xây dựng và mở mang thật nhiều ngôi chùa tạc tượng Phật, đúc chuông để tạo nơi thờ Phật, sau là nơi tu học và là nơi hoằng truyền Phật pháp cứu độ muôn loài chúng sinh. Gia đình bà đã phát tâm công đức trùng tu và mở rộng chùa Bái Đính, nạo vét những thung lũng, cải tạo hệ thống hang động ở Tràng An, phục dựng những điểm di tích lịch sử để trở thành Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới. Bà cũng có công lớn trong việc xây dựng 09 ngôi chùa ở quần đảo Trường Sa, là cột mốc tâm linh khẳng định chủ quyền của đất nước.

          Hiện nay, chùa đang tiếp tục xây dựng thêm một số hạng mục công trình Phật giáo khác như: Công viên văn hoá Phật giáo, Bảo tàng Phật giáo, Hồ Đàm Thị…